Scholar Hub/Chủ đề/#x quang ngực/
X quang ngực là một kỹ thuật hình ảnh y tế được sử dụng để chụp ảnh của các bộ phận trong ngực như phổi, tim, xương sườn và cơ tim. Qua việc tạo ra các hình ảnh...
X quang ngực là một kỹ thuật hình ảnh y tế được sử dụng để chụp ảnh của các bộ phận trong ngực như phổi, tim, xương sườn và cơ tim. Qua việc tạo ra các hình ảnh bức xạ, x quang ngực giúp bác sĩ xác định các vấn đề về sức khỏe trong khu vực này, như bất thường xương, vi khuẩn hoặc nhiễm trùng phổi, ung thư phổi và những vấn đề về tim. Kỹ thuật này rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong các phòng khám và bệnh viện.
Khi tiến hành một x quang ngực, bệnh nhân được yêu cầu đứng trước máy x quang, với một bảng phim x quang được đặt phía sau lưng. Bệnh nhân sẽ được yêu cầu đứng thẳng hoặc nghiêng các hướng khác nhau để cho phép tạo ra các hình ảnh từ nhiều góc độ.
Kỹ thuật x quang ngực thường sử dụng ánh sáng x quang để tạo ra hình ảnh của các cơ tim, phổi, xương sườn và các cấu trúc khác trong ngực. Ánh sáng x quang sẽ đi qua cơ thể và được hấp thụ hoặc đi qua các cấu trúc bên trong ngực. Các vùng cấu trúc khác nhau trong ngực hấp thụ ánh sáng x quang một cách khác nhau, tạo ra các bóng đen khác nhau trên hình ảnh x quang.
Sau khi chụp x quang, các hình ảnh được chuyển đến máy tính để phân tích. Bác sĩ sẽ xem xét các hình ảnh này để phát hiện sự bất thường trong ngực và đưa ra chẩn đoán. X quang ngực có thể giúp phát hiện các tổn thương, khối u, vi khuẩn hoặc nhiễm trùng trong phổi hoặc vùng ngực khác.
X quang ngực là một trong những phương pháp đầu tiên được sử dụng để chẩn đoán các vấn đề về sức khỏe của ngực. Tuy nhiên, nó có một số hạn chế như không thể hiển thị chi tiết cơ bản về mô và chỉ tạo ra hình ảnh hai chiều. Do đó, trong một số trường hợp, các kỹ thuật hình ảnh khác như CT scan, MRI hoặc siêu âm có thể được sử dụng để tăng cường quá trình chẩn đoán.
Khi tiến hành x quang ngực, bệnh nhân sẽ được đứng trước máy x quang và xách tay, để cho phép máy x quang chụp ảnh từ phía trước. Thỉnh thoảng, hình ảnh cũng có thể được chụp từ phía sau để hiển thị các cấu trúc bên trong ngực.
Trước khi bước vào phòng x quang, bệnh nhân cần loại bỏ bất kỳ vật trang trang sức hay đồ trang điểm có thể gây nhiễu sóng x quang. Bệnh nhân sẽ được yêu cầu mặc áo x quang đặc biệt hoặc mở những nút trên áo để tiến hành quá trình chụp ảnh. Trong trường hợp nữ, nếu đang mang bầu hoặc có khả năng có thai, cần thông báo cho nhân viên x quang để được tư vấn và đưa ra biện pháp an toàn phù hợp.
Trong quá trình chụp, bệnh nhân sẽ được yêu cầu đứng thẳng hoặc nghiêng, lấy hơi thật sâu và giữ trong một thời gian ngắn. Quá trình chụp x quang ngực chỉ kéo dài vài giây và không gây đau đớn hoặc không thoải mái đáng kể.
Sau khi được chụp, hình ảnh x quang sẽ được xem xét và đánh giá bởi một bác sĩ chuyên về hình ảnh y tế. Bác sĩ sẽ chú ý đến các cấu trúc như phổi, xương sườn, tim và mạch máu để đánh giá xem có sự bất thường nào không. Kỹ thuật x quang ngực có thể phát hiện các vấn đề như khối u, vi khuẩn hoặc nhiễm trùng, cấu trúc xương sườn gãy, phổi bị sưng hoặc ứ đọng, hoặc các vấn đề về tim.
Tuy nhiên, x quang ngực có giới hạn trong việc hiển thị các chi tiết mô và không thể phân biệt rõ ràng giữa các cấu trúc gần nhau. Do đó, trong một số trường hợp, có thể cần sử dụng các kỹ thuật hình ảnh khác như CT scan hoặc MRI để có cái nhìn chi tiết hơn về vấn đề sức khỏe trong ngực.
Phân loại COVID-19 trong hình ảnh X-quang ngực bằng mạng nơ-ron tích chập sâu DeTraC Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắtHình ảnh X-quang ngực là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh đầu tiên đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán bệnh COVID-19. Nhờ vào sự sẵn có cao của các tập dữ liệu hình ảnh được chú thích quy mô lớn, đã đạt được nhiều thành công lớn trong việc sử dụng mạng nơ-ron tích chập (CNN) cho nhận diện và phân loại hình ảnh. Tuy nhiên, do sự hạn chế về khả năng tiếp cận các hình ảnh y tế được chú thích, việc phân loại hình ảnh y tế vẫn là thách thức lớn nhất trong chẩn đoán y tế. Nhờ có học chuyển giao, một cơ chế hiệu quả có thể cung cấp giải pháp hứa hẹn bằng cách chuyển giao kiến thức từ các nhiệm vụ nhận diện đối tượng chung sang các nhiệm vụ đặc thù trong miền. Trong bài báo này, chúng tôi xác thực và giới thiệu một mạng CNN sâu, gọi là Phân tách, Chuyển giao và Tổng hợp (DeTraC), cho việc phân loại hình ảnh X-quang ngực bệnh COVID-19. DeTraC có thể xử lý bất kỳ sự bất thường nào trong tập dữ liệu hình ảnh bằng cách điều tra biên giới lớp của nó thông qua cơ chế phân tách lớp. Kết quả thực nghiệm cho thấy khả năng của DeTraC trong việc phát hiện các trường hợp COVID-19 từ một tập dữ liệu hình ảnh toàn diện được thu thập từ nhiều bệnh viện trên thế giới. Độ chính xác cao 93.1% (với độ nhạy 100%) đã được đạt được bởi DeTraC trong việc phát hiện hình ảnh X-quang COVID-19 từ các trường hợp bình thường và trường hợp hội chứng hô hấp cấp tính nặng.
#COVID-19 #X-quang ngực #mạng nơ-ron tích chập sâu #DeTraC #học chuyển giao
Điểm độ tổn thương phổi trên X-quang ngực ở bệnh nhân COVID-19 khi nhập viện tại phòng cấp cứu: một nghiên cứu tại hai trung tâm Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 4 Số 1 - 2020
Abstract
Đặt vấn đề
Việc kết hợp các thông số hình ảnh và lâm sàng có thể cải thiện phân tầng bệnh nhân COVID-19 khi nhập viện tại phòng cấp cứu. Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá mức độ tổn thương phổi do COVID-19 trên hình ảnh X-quang ngực (CXR) bằng cách sử dụng thang điểm mức độ bán định lượng, đồng thời tương quan với dữ liệu lâm sàng và kiểm tra độ đồng thuận giữa các người đánh giá.
Phương pháp
Từ ngày 22 tháng 2 đến ngày 8 tháng 4 năm 2020, 926 bệnh nhân liên tiếp nghi ngờ nhiễm SARS-CoV-2 đã được xem xét tại phòng cấp cứu của hai cơ sở ở miền Bắc Italy. Những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase sao chép ngược dương tính với SARS-CoV-2 và hình ảnh CXR khi nhập viện được đưa vào nghiên cứu (295 bệnh nhân, độ tuổi trung vị 69 tuổi, 199 nam giới). Năm người đọc độc lập và mù đã đánh giá tất cả CXR, đánh giá sự tham gia của mô phổi bằng thang điểm bán định lượng từ 0 đến 3 theo từng bước 1 điểm trên 6 vùng phổi (tổng điểm từ 0 đến 18). Độ đồng thuận giữa các người đánh giá được đánh giá bằng hệ số Cohen có trọng số κ, tương quan giữa điểm CXR trung vị và dữ liệu lâm sàng được đo bằng hệ số Spearman ρ, và kiểm tra Mann-Whitney U.
Kết quả
Điểm trung vị cho thấy có tương quan âm với SpO2 (ρ = -0.242, p < 0.001), có tương quan dương với số lượng bạch cầu (ρ = 0.277, p < 0.001), lactate dehydrogenase (ρ = 0.308, p < 0.001), và protein C-reactive (ρ = 0.367, p < 0.001), với điểm số này cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân sau đó đã tử vong (p = 0.003). Xét về điểm số tổng thể, sự kết hợp giữa các người đọc cho thấy độ đồng thuận giữa các người đánh giá từ trung bình (κ = 0.449, p < 0.001) đến gần như hoàn hảo (κ = 0.872, p < 0.001), với độ đồng thuận tốt hơn giữa các người đánh giá của trung tâm 2 (lên tới κ = 0.872, p < 0.001) so với trung tâm 1 (κ = 0.764, p < 0.001).
Kết luận
Điểm số độ nặng phổi trên CXR ở bệnh nhân COVID-19 cho thấy độ đồng thuận giữa các người đánh giá từ trung bình đến gần như hoàn hảo và có sự tương quan đáng kể nhưng yếu với các thông số lâm sàng, điều này có thể thúc đẩy việc tích hợp CXR trong phân tầng bệnh nhân.
#COVID-19 #X-quang ngực #tổn thương phổi #điểm độ nặng #đánh giá giữa các người đọc
PHẪU THUẬT THU GỌN VÚ SỬ DỤNG VẠT MANG PHỨC HỢP QUẦNG NÚM VÚ TRỤC MẠCH NGỰC TRONGBài báo nhằm đánh giá đặc điểm vạt mang phức hợp quầng núm vú của động mạch ngực trong và kết quả sử dụng vạt mang phức hợp quầng núm vú trục mạch ngực trong trong phẫu thuật thu gọn vú phì đại. Tiến hành trên 30 bệnh nhân với 60 vú phì đại được thu gọn bằng vạt phức hợp quầng núm vú trục mạch ngực trong tại bệnh viện Xanh Pôn và bệnh viện Bạch Mai từ 01/2017 đến 06/2021. Mức độ phì đại nhiều, rất nhiều chiếm 45 vú (70%) và khổng lồ 14 vú (23,3%). Trên siêu âm doppler cầm tay: 100% động mạch ngực trong cho nhánh nuôi vào quầng núm vú từ các phía: trên (11,67%), trên trong (75%) và trong (13,33%). 20 động mạch vú trong của 10 bệnh nhân được khảo sát trên phim MSCT, nhánh vào quầng núm vú chủ yếu thuộc KLS II, III, 95% có đường kính mạch trên 1,5mm. Vạt phức hợp quầng núm vú trục mạch ngực trong thiết kế dưới 3 dạng theo hướng vào quầng núm vú của trục mạch: 45/60 (75%) cuống trên trong, 7/60 (11,67%) cuống trên, 8/60 (13,33%) cuống trong. 45/60 (75%) Vạt có tỷ lệ dài/rộng > 2/1, lớn nhất tới 4,43/1. 100% Quầng núm vú sống. 14/60 quầng núm vú (23,3%) bị rối loạn cảm giác. Sau 3 tháng, 8/14 quầng núm vú rối loạn cảm giác được phục hồi. Tóm lại, động mạch ngực trong rất đáng tin cậy trong cấp máu quầng núm vú. Thu gọn vú sử dụng vạt mang phức hợp quầng núm vú trục mạch ngực trong đảm bảo sức sống và di chuyển linh động quầng núm vú, có thể áp dụng cho mọi mức độ vú phì đại.
#Phì đại tuyến vú #phức hợp quầng núm vú #vạt trục mạch ngực trong
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐIỂM SỐ TRẦM TRỌNG CỦA VIÊM PHỔI DO COVID-19 TRÊN PHIM CHỤP X QUANG, CẮT LỚP VI TÍNH NGỰC VỚI MỘT SỐ CHỈ SỐ LÂM SÀNGMục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh và xác định mối liên quan giữa mức độ tổn thương phổi trên XQ và CLVT với một số chỉ số lâm sàng của bệnh nhân COVD-19. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu quan sát, tương quan 370 bệnh nhân COVID-19 nhập viện với mục đích cách ly và/hoặc điều trị tại Bệnh viện Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương từ 28 tháng 1 đến 28 tháng 3 năm 2021. Kết quả: Điểm trầm trọng của viêm phổi trên XQ và CLVT của nhóm bệnh nhân nặng thực sự cao hơn nhóm nhẹ (p< 0,05). Bệnh nhân có điểm trầm trọng trên CLVT >7 có tỉ lệ nằm HSTC cao gấp 8,02 lần nhóm có điểm ≤7 (AUC꞊0,837). Bệnh nhân ≥ 40 tuổi có điểm mức mức độ trầm trọng trên CLVT ≥7 cao gấp 6 lần những bệnh nhân có tuổi < 40. Kết luận: Trong COVID-19, nhu mô ngoại vi ở vùng dưới của cả hai phổi bị tổn thương chủ yếu. Điểm số mức độ nghiêm trọng cao trên XQ và CLVT có mối tương quan có ý nghĩa với giới tính nam, nhóm bệnh nhân lớn tuổi và mức độ bệnh của bệnh nhân COVID-19.
#COVID-19 #Điểm trầm trọng #CT #X quang ngực #lâm sàng
ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THANG ĐIỂM TSS VÀ BRIXIA TRONG X-QUANG NGỰC Ở BỆNH NHÂN MẮC BỆNH COVID 19Mục tiêu: Áp dụng 2 hệ thống thang điểm TSS (Total Severity Score) và Brixia trong hình ảnh X-quang ngực để đánh giá suy hô hấp cấp nặng do bệnh Covid-19. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 128 bệnh nhân nằm viện vì bệnh Covid-19, có ít nhất 2 lần chụp X-quang phổi lúc vào viện và lúc ra viện hoặc chuyển viện. Kết quả: Hai bác sĩ chẩn đoán hình ảnh đọc phim X-quang phổi theo 2 hệ thống thang điểm TSS và Brixia có chỉ số tương hợp tốt kappa lần lượt là 0,734 và 0,668. Nhưng khi so sánh 2 hệ thống thang điểm TSS và Brixia thì chỉ tương hợp ở mức trung bình với kappa 0,584 do hai hệ thống có số điểm tối đa khác nhau (8 và 18 điểm). Thang điểm TSS bỏ sót nhiều bệnh ở mức độ vừa và nặng có nhiều nguy cơ tử vong. Kết luận: Hệ thống thang điểm để đánh giá X-quang phổi là cần thiết trong theo dõi điều trị Covid-19. Thang điểm TSS dễ đánh giá nhưng có thể bỏ sót các bệnh nhân vừa và nặng có nhiều nguy cơ tử vong.
#Covid-19 #Thang điểm TTS #Thang điểm Brixia #phim X-quang phổi
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, X QUANG LỒNG NGỰC CỦA BỆNH NHÂN LAO PHỔI CÓ KHÁNG ISONIAZIDMục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm về lâm sàng và XQ phổi của bệnh nhân lao phổi kháng INH. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, mô tả cắt ngang 168 đối tượng là bệnh nhân lao phổi kháng Isoniazid được chẩn đoán và điều trị tại phòng khám, các khoa nội trú bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh, thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 06/2020. Tiến hành thu thập các số liệu về lâm sàng, xét nghiệm và các dấu hiệu XQ theo mẫu bệnh án có sẵn. Phân tích số liệu theo phần mềm thống kê thích hợp và đưa ra kết quả theo mục tiêu nghiên cứu. Kết quả: Tuổi bệnh nhân dao động từ 17 đến 85, trung vị 50,5, có 47,7% trong độ tuổi 25 - 55. Lao Phổi Hr thường gặp ở nam (72,6%). Thói quen hút thuốc lá 73,8%. Tiền sử đã điều trị Lao Phổi 25,6%. Thời gian mắc bệnh kéo dài, 26,6% ca có thời gian bệnh 30 ngày, 22,2% ca 60 ngày. Triệu chứng cơ năng thường gặp là Ho, 89,9%; Mệt mỏi, 85,7%; Khạc đàm 73,2%; Sụt cân 63,1%; Sốt 61,3%. Triệu chứng thực thể nghèo nàn, thường gặp nhất là ran nổ chiếm 39,9%. Gần 2/3 bệnh nhân có tổn thương ở cả hai phổi trên phim X quang. Thâm nhiễm là tổn thương thường gặp nhất (97%). Khoảng 50% bệnh nhân lao phổi có tổn thương diện hẹp trên X quang. Kết luận: Lao phổi kháng INH có đặc điểm tiền sử, thời gian mắc bệnh cũng như biểu hiện lâm sàng và XQ có nhiều điểm khác biệt hơn so với lao phổi mới.
#Lao phổi #lao kháng thuốc #Isoniazid #…
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH VÀ MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG PHỔI TRÊN XQUANG NGỰC Ở BỆNH NHÂN COVID-19Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh và mức độ tổn thương phổi trên Xquang ngực ở bệnh nhân COVID-19. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 370 bệnh nhân được chẩn đoán dương tính bằng dịch tỵ hầu điều trị tại bệnh viện Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương. Kết quả: Tổng cộng 370 BN (157nam(42.4%) và 213 nữ (57.6%)): tuổi mắc bệnh trung bình 34,74;. Tổn thương thường gặp nhất là tổn thương kính mờ, đông đặc và đạt đỉnh khoảng ngày 5-9, tổn thương tràn dịch màng phổi, dày màng phổi và giãn phế quản ít gặp(<1%), vị trí hay gặp là vùng ngoại vi, tổn thương cả 2 phổi chiếm đa số. Điểm số nghiêm trọng trên Xquang ngực cao nhất là 12 và đỉnh thường phát hiện ở trong 10 ngày đầu của bệnh.
#COVID-19 #Thang điểm trầm trọng trên Xquang ngực #Viêm phổi
ĐẶC ĐIỂM VÀ TIẾN TRIỂN TỔN THƯƠNG PHỔI TRÊN PHIM XQUANG VÀ CT NGỰC Ở CÁC BỆNH NHÂN COVID-19 CÓ VIÊM PHỔI ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TWMục tiêu: Nghiên cứu thực hiện nhằm mục đích mô tả đặc điểm và tiến triển tổn thương phổi trên phim Xquang và CT ngực ở các bệnh nhân (BN) COVID-19 có viêm phổi điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương. Đối tượng & phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 200 BN nhiễm COVID-19 được điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương từ tháng 01/2020 đến tháng 05/2021. Kết quả: 91,5% BN không có tổn thương trên XQ ngực thẳng, trong khi đó tổn thương phổi phát hiện trên CT ngực là 53% BN. Đặc điểm tổn thương phổi trên Xquang ngực: 64,7% BN có tổn thương ở 2 phổi, 41,2% tổn thương 1/3 dưới, 35,3% tổn thương lan tỏa. Hình thái tổn thương bao gồm: đám mờ (70,6%), dày kẽ (17,6%), kính mờ (11,8%). Đặc điểm tổn thương trên CT ngực: tổn thương chủ yếu nằm ở vùng ngoại vi phổi (57,5%), cả trung tâm và ngoại vi (38,7%). Phân phối tổn thương ở nhiều thùy 2 phổi (68%). Hình thái tổn thương chủ yếu thường gặp là: kính mờ (91,5%), đông đặc (22,6%), dày kẽ (14,2%). Tiến triển tổn thương trên CT ngực: sau 15 ngày điều trị 68% bệnh nhân tổn thương có xu hướng giảm đi hoặc về bình thường, 2,8% bệnh nhân tổn thương có xu hướng không thay đổi, 6,6% bệnh nhân nặng lên, tổn thương có xu hướng xấu đi.
#COVID-19 #viêm phổi #Xquang ngực #CT ngực
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỨC ĐỘ NẶNG CỦA TỔN THƯƠNG PHỔI TRÊN X QUANG NGỰC Ở BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN DO COVID-19Mở đầu: COVID-19 đã và đang trở thành gánh nặng y tế toàn cầu. X quang ngực là công cụ hình ảnh học đơn giản giúp chẩn đoán độ nặng và tiên lượng phù hợp trong quản lý bệnh COVID-19. Dữ liệu về đánh giá độ nặng tổn thương phổi trên X quang ở bệnh nhân COVID-19 tại Việt Nam còn hạn chế. Mục tiêu: Nghiên cứu này được tiến hành để mô tả đặc điểm lâm sàng, mức độ nặng tổn thương phổi trên X quang ngực ở bệnh nhân COVID-19 và đánh giá mối liên quan giữa những yếu tố lâm sàng với độ nặng của tổn thương phổi trên X quang ngực. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên bệnh nhân nhiễm COVID-19 nhập viện trong khoảng thời gian từ ngày 30/08/2021 đến ngày 30/09/2021. Đánh giá mức độ nặng của tổn thương phổi trên X quang ngực trong 24 giờ đầu nhập viện bằng thang điểm Brixia. Kết quả: Nghiên cứu có 279 bệnh nhân với 57,7% giới nữ, tuổi trung bình 59,6 ± 13,9 và 72,4% bệnh nhân COVID-19 nhập viện có bệnh nền. Điểm Brixia có giá trị trung vị là 13 (9 – 16) điểm. Phổi phải và phổi trái có điểm Brixia lần lượt 7 (5 – 9) và 6 (4 – 8). Vùng thấp của phổi có điểm tổn thương cao hơn so với vùng giữa và trên của phổi. Bệnh nhân thuộc nhóm có điểm Brixia cao có nhịp tim nhanh hơn, BMI cao, điểm NEW2 cao hơn so với nhóm có điểm Brixia thấp (p < 0,05). Tỷ lệ cao thở oxy mask ở nhóm có điểm Brixia thấp là 39,6%, trong khi đó tỷ lệ này là 62,4% ở nhóm có điểm số Brixia cao. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân COVID-19 nhập viện có độ tuổi cao tuổi, với giới nữ chiếm ưu thế và phần lớn bệnh nhân có bệnh nền. Điểm Brixia trong nghiên cứu là cao. Bệnh nhân có điểm Brixia càng cao, tỷ lệ cần hỗ trợ bằng các dụng cụ cung cấp oxy càng cao.
#COVID-19 #tổn thuơng phổi #X quang ngực
Siêu âm M-mode chuyển động cơ hoành: mô tả kỹ thuật và kinh nghiệm trên 278 bệnh nhân nhi Dịch bởi AI Pediatric Radiology - Tập 35 - Trang 661-667 - 2005
Bối cảnh: Việc sử dụng siêu âm M-mode để đánh giá chuyển động của cơ hoành chỉ được báo cáo trước đây trong một số ít các loạt trẻ em, và việc áp dụng chưa phổ biến ở các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh nhi khoa. Mục tiêu: Trình bày kinh nghiệm của chúng tôi với siêu âm M-mode trong việc đánh giá chuyển động cơ hoành ở một số lượng lớn trẻ em nghi ngờ bị liệt cơ hoành, mô tả kỹ thuật đã sử dụng và tương quan các phát hiện siêu âm với phim X-quang ngực và kết quả lâm sàng. Tài liệu và phương pháp: Phân tích hồi cứu tất cả các hình ảnh siêu âm M-mode được thực hiện trên trẻ em từ tháng 9 năm 1999 đến tháng 12 năm 2003. Các phim X-quang ngực có sẵn và các phát hiện lâm sàng đã được xem xét và tương quan với các phát hiện siêu âm. Kết quả: Tổng cộng có 742 nửa cơ hoành đã được đánh giá ở 278 trẻ em. Không có hình ảnh của nửa cơ hoành trái ở 2 trẻ em (0,71%). Chuyển động của nửa cơ hoành phải là bình thường ở 238 trường hợp và bất thường ở 131 trường hợp. Chuyển động của nửa cơ hoành trái là bình thường ở 232 trường hợp và bất thường ở 135 trường hợp. Chuyển động cơ hoành bất thường được phát hiện ở 118 (63%) trong 187 trẻ em mà phim X-quang ngực cho thấy vị trí bình thường của các nửa cơ hoành. Các kết quả theo dõi được thực hiện ở 56 trẻ em, cho thấy sự cải thiện trong chuyển động cơ hoành ở 26 trẻ em, không có thay đổi ở 23 trường hợp và suy giảm chuyển động ở bảy trường hợp. Tóm tắt: Siêu âm M-mode nên là phương pháp lựa chọn để đánh giá chuyển động của cơ hoành, vì nó có thể dễ dàng mô tả rối loạn chức năng của cơ hoành và cho phép so sánh các thay đổi trong các nghiên cứu theo dõi. Các phim X-quang ngực bình thường có dự đoán kém về chuyển động cơ hoành bình thường.
#siêu âm M-mode #chuyển động cơ hoành #bệnh nhân nhi #liệt cơ hoành #đánh giá siêu âm #X-quang ngực